Tướng cướp Bảy Đởm, “phó ông trời” vùng Bảy Núi

Dù cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đã lùi vào quá khứ gần nửa thế kỷ nhưng những bậc kỳ lão ở khu vực Tứ giác Long Xuyên (Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang) vẫn còn nhớ như in nỗi khiếp sợ khi nhắc đến một viên sĩ quan của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đó là Trung tá Phạm Văn Đởm - Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn địa phương quân tỉnh Châu Đốc - người luôn tự xưng là "phó ông trời" vùng Thất Sơn, An Giang...

Ba Cụt, chủ tướng của Bảy Đởm.
Mức độ tàn ác, phi nhân của Bảy Đởm được các bậc kỳ lão đánh giá là "lay động lòng trời".
Tiểu sử bất hảo của viên Trung tá
Phạm Văn Đởm sinh 1918, ở tổ 4, ấp Núi Voi, xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên, An Giang. Con ông thầy pháp Phạm Văn Phải và bà Ngô Thị Có. Phạm Văn Đởm có tất cả 9 anh chị em ruột.
Ông Phải là một tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Trong phong trào khởi nghĩa chống Pháp bằng phép thuật của Phan Xích Long, ông Phải là một trong những đàn chủ bí mật ở vùng núi Voi. Sau khi cuộc kháng chiến của Phan Xích Long thất bại, lo sợ quân Pháp truy lùng, ông Phải lánh về vùng núi Tà Lơn ẩn cư. Tại đây, ông bái sư một pháp sư Kh'mer theo trường phái Trà Kha.
Khi trở về núi Voi, ông mở lò dạy võ Trà Kha, đồng thời lập đàn trị bệnh cho xóm giềng bằng bùa chú. Trước khi trị bệnh, ông Phải thường biểu diễn phép gồng bằng cách niệm chú rồi dùng lưỡi mác bén như dao cạo tự chém cật lực vào lưng, bụng mình nghe phành phạch khiến người chứng kiến khiếp hãi, rụng rời. Thỉnh thoảng cao hứng ông còn nhờ thân nhân người bệnh chém giúp. Điều lạ là lưỡi mác chạm vào da ông như chạm vào lốp xe ôtô, bật ra chứ không tạo thành vết thương. Nhờ những chiêu biểu diễn ấy, người ta tin ông là lục tà (thần sống).
Là con trai lục tà Trà Kha, từ nhỏ Bảy Đởm trở thành thủ lĩnh của đám trẻ trong xóm. Bảy Đởm sẵn sàng đánh nhau với bất kỳ đứa trẻ nào dám thách thức. Hàng ngày, Bảy Đởm kéo đàn em vào các xóm lân cận ăn trộm vặt hoặc gây sự. Những đứa trẻ ở xóm khác đi ngang qua xóm nhà Bảy Đởm đều phải nộp tiền mãi lộ. Ban đêm, Bảy Đởm không về nhà mà chui vào lùm cây, bụi cỏ dưới chân núi Voi ngủ lăn lóc.
Đến năm 15 tuổi, Bảy Đởm trở thành vua trộm bò ở khu vực. Hễ thấy con bò nào không có người trông coi là Bảy Đởm ngang nhiên cỡi thẳng về phía biên giới Tịnh Biên bán lấy tiền tiêu xài. Trên đường đi, nếu bị khổ chủ phát hiện, Bảy Đởm sẵn sàng dùng con dao dâu luôn giắt sẵn bên người tấn công nạn nhân.
Biết chuyện Bảy Đởm ăn trộm, ông Phải cho học trò đi lùng bắt cậu con trai điệu về nhà trói gô dưới gốc cây xoài. Lục tà sự Phải cho rằng con mình bị ma quỷ nhập quậy phá nên dùng roi tầm ma đánh cho một trận thừa sống thiếu chết.

Nguyễn Giác Ngộ (ngồi giữa), Tư lệnh lực lượng quân sự Hòa Hảo.
Sau trận đòn nhớ đời đó, Bảy Đởm tuyên bố từ cha rồi lên núi Bà Đội Om lấy một hang đá làm bản doanh, quy tụ đàn em lập băng cướp cạn chuyên chặn xe đò từ Châu Đốc đi Long Xuyên ngang qua dốc Tà Đét. Thuở đó, khách thương hồ Châu Đốc thường mua vé xe "bộ hiền" (một loại xe ôtô du lịch cải tạo thành xe chở khách) tài nhất (chuyến xe đầu tiên trong ngày) khởi hành lúc 1 giờ sáng của hãng xe đò Tân Thành chở hàng tươi sống đi Long Xuyên bằng tuyến đường này.
Chủ Hãng xe Tân Thành là một Hoa kiều tên Giang Ý Hía - một người thân của chủ tỉnh Châu Đốc, nên xe của ông luôn luôn được ưu tiên chạy tài nhất. Kể từ khi Bảy Đởm đóng "bản doanh" ở núi Bà Đội Om, Hãng xe Tân Thành trở thành mồi ngon của Bảy Đởm.
Một đêm, Bảy Đởm cùng đám đàn em dùng một lóng cây rừng chắn ngang đường. Xe chở hàng gặp lóng cây buộc phải dừng lại. Thế là Bảy Đởm cùng đồng bọn lao ra dùng dao dâu khống chế tài xế rồi thu tiền mãi lộ từng hành khách.
Nghe tin nhà xe Tân Thành bị cướp, viên chủ tỉnh Châu Đốc sai một trung đội lính cảnh sát lên núi Bà Đội Om lùng bắt toán cướp. Sau 3 ngày săn lùng, cảnh sát trở về tay không.
Ba Cụt bị chính quyền Ngô Đình Diệm tử hình bí mật.
Đêm sau, viên chủ tỉnh đang ngủ, chợt giật mình thức giấc. Mở mắt ra, ông ta trông thấy toàn bộ gia đình mình bị trói gô nằm lăn lóc dưới đất. Hai tên đàn em của Bảy Đởm đang cầm con dao dâu mài hù dọa trên cổ từng người. Bảy Đởm thì đang cầm con dao dâu bén ngót vừa cạo bộ râu củ ấu của viên chủ tỉnh vừa hầm hừ đe dọa. Viên chủ tỉnh hoảng vía năn nỉ xin tha mạng và hứa không đụng chạm đến lãnh địa của Bảy Đởm.
Kể từ đó, trở thành thông lệ, cứ xe đò chạy đến dốc Tà Đét dưới chân núi Bà Đội Om là phải nộp tiền mãi lộ cho Bảy Đởm như nộp phí cầu đường. Có đêm, do ăn nhậu no say, chúng ngủ quên không ra thu tiền mãi lộ. Hãng xe tưởng thoát được một chuyến "thuế". Không ngờ đêm sau, xe vừa ngừng, chúng lôi tài xế xuống đánh vì tội đến "trạm" mà không bóp còi báo cho chúng thức.
Nếu trên xe có phụ nữ đẹp, chúng bảo tài xế tắt máy xe chờ rồi chúng lôi nạn nhân xuống bìa rừng thay nhau cưỡng hiếp. Hiếp xong, chúng cõng nạn nhân ném trả lên xe. Từ đó, nhà xe Tân Thành không nhận chở phụ nữ trẻ. Sau vài đêm chặn xe, không thấy phụ nữ, Bảy Đởm lôi tài xế xuống đất dùng chày vồ đánh đến hộc máu rồi buộc hứa mỗi tuần phải… chở một hành khách nữ cho chúng hiếp. Nhà xe phải thuê một gái mại dâm, để đáp ứng dục vọng của Bảy Đởm và lũ đầu lâu. Dạo đó, dân địa phương gọi Bảy Đởm là "tướng cướp dao dâu".
Ngôi mộ gió của Ba Cụt tại Thới Long, Ô Môn, Cần Thơ.
Bảy Đởm lộng hành tại vùng núi Bà Đội Om từ năm 1933 đến năm 1954 thì gặp lãnh chúa Ba Cụt. Cuộc gặp gỡ này đã nâng cấp cuộc đời tướng cướp Bảy Đởm.
Chủ tướng Ba Cụt
Tên thật của Ba Cụt là Lê Quang Vinh. Ông ta sinh năm 1923, ở rạch Bằng Tăng, phường Thới Long, quận Ô Môn, Cần Thơ. Có tài liệu cho rằng Ba Cụt sinh ra trong một gia đình khá giả. Tuy nhiên, những cụ già cao niên hiện đang sinh sống tại rạch Bằng Tăng khẳng định, gia đình Ba Cụt rất nghèo. Từ nhỏ, ông này đã phải đi chăn vịt chạy đồng cho một điền chủ ở cù lao Cát (ngày nay là phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt).
Tính tình ngang bướng và nóng nảy, Ba Cụt mê đánh lộn hơn chăn vịt. Một hôm, chủ vịt phát hiện Ba Cụt để vịt đói nên đã rầy la. Thế là Ba Cụt đập chết hết bầy vịt rồi bỏ về nhà cha mẹ.
Bị chủ vịt mắng vốn, người cha tức giận đét vào mông Ba Cụt vài roi. Không ngờ, Ba Cụt đấm cha ruột một phát bất tỉnh rồi lấy dao thái chuối chặt đứt một ngón tay với lời thề: "Có chết phanh thây cũng không về căn nhà này nữa". Vì lý do đó, ông ta có hỗn danh là Ba Cụt.
Sau khi bỏ nhà đi bụi, Ba Cụt đi thẳng đến Chắc Cà Đao (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang) ở nhà người cậu ruột là ông Huỳnh Kim Thành. Tại đây, Ba Cụt được cậu nuôi ăn học đến hết tiểu học. Thời gian này Ba Cụt xin thọ giáo võ sư Sáu Kim ở cùng xóm. Ba Cụt tỏ ra có năng khiếu võ nghệ, vượt trội các bạn đồng khóa, nên trở thành đồ đệ cưng của Ba Kim và trở thành côn đồ địa phương. Hầu như ngày nào Ba Cụt cũng phải đánh nhau với một ai đó. Những thanh niên bất hảo ở địa phương tụ tập nhau lại thành một băng nhóm chuyên đi gây sự từ xóm trên đến xóm dưới. Họ tôn Ba Cụt làm đại ca.
Năm 1940, Ba Cụt đi xem Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng đạo pháp Phật giáo Hòa Hảo tại Chắc Cà Đao. Do quá sùng tín Giáo chủ, những tín đồ địa phương chen lấn nhau giành chỗ ngồi gần, không ai nhường nhịn ai. Thấy vậy, Ba Cụt cùng đàn em dùng nắm đấm giữ trật tự.
Kết thúc buổi thuyết giảng, Ba Cụt chặn đường Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, ngổ ngáo thách đố: "Ông là Phật sống, có ngon dùng phép thuật biến hóa cho tui coi. Ông làm được, tui theo đạo của ông". Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ chẳng nói chẳng rằng, vơ cái bội nhốt gà ven đường chụp lên đầu Ba Cụt rồi đi thẳng. Những người chứng kiến tưởng Ba Cụt sẽ tấn công Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Không ngờ Ba Cụt cứ đứng im lặng suy nghĩ rất lâu. Không ai hiểu vì sao Ba Cụt lại đứng "chết trân" như thế. Sau này, khi trở thành tư lệnh một đơn vị quân đội Hòa Hảo, Ba Cụt tâm sự với Bảy Đởm: "Lúc ổng mới trùm bội nhốt gà lên đầu, tao cứ tưởng ổng dùng phép thuật gì đó. Tao đứng yên để xem phép thuật biến hóa ra sao. Ai dè, đứng hoài không thấy gì hết. Khi ngẩng lên thì ổng đã đi mất tiêu rồi".
Mấy hôm sau, từ nguồn xác minh của các đệ tử, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đã nắm được nhân thân Ba Cụt. Thời điểm này, phong trào ủng hộ Cường Để đang ngấm ngầm lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ. Một lực lượng quân sự kháng Pháp trong giáo phái Hòa Hảo dần hình thành. Lúc đầu, lực lượng này được gọi chung chung là "đội Bảo An". Ba Cụt đưa băng nhóm của mình gia nhập vào đội ngũ này. Đến năm 1944, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ mới chính thức công khai đội Bảo An quân.
Ba Cụt được giao chỉ huy một đại đội gồm các thành phần đầu gấu trong xã hội. Vùng trách nhiệm của Ba Cụt trải dài từ Ô Môn (Cần Thơ) đến Long Xuyên, sang Tri Tôn (bây giờ là tỉnh An Giang). Khu vực Tà Đét, núi Bà Đội Om nằm trong vùng trách nhiệm của Ba Cụt.
Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, nhóm vũ trang của Ba Cụt được lệnh của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sáp nhập với lực lượng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực, trực thuộc lực lượng quân sự Hòa Hảo do Trần Văn Soái làm chỉ huy.
Ngày 18/5/1947, Trần Văn Soái đại diện lực lượng quân sự Hòa Hảo tự ý ký kết một hiệp định liên kết với đại tá Cluzet - Tư lệnh Phân khu Tây Nam Bộ của Pháp. Theo đó, quân đội Hòa Hảo - một lực lượng kháng Pháp, giờ trở thành Lực lượng Dự bị (Suppletif Forces) của quân đội Pháp. Ba Cụt tuyên bố ly khai với Trần Văn Soái, đặt tên mới cho lực lượng quân sự của mình là "Nghĩa quân Cách mạng". Không ai biết lực lượng "nghĩa quân" của Ba Cụt hoạt động với mục đích gì, bởi ông ta chống lại tất cả mọi lực lượng quân sự khác, từ quân đội Hòa Hảo, Pháp, kể cả Việt Minh…
Ba Cụt đóng bản doanh tại Bằng Tăng (Ô Môn, Cần Thơ) cát cứ một cõi theo kiểu thổ phỉ và trở thành nỗi khiếp hãi của nhân dân địa phương.
Quen thói côn đồ chợ, Ba Cụt đối xử với binh lính và quần chúng rất tàn nhẫn, ác độc. Cho đến tận bây giờ, nhiều vị kỳ lão địa phương vẫn rùng mình khi nhớ về giai đoạn "sống chung với quân Ba Cụt".
Để có tiền nuôi quân, Ba Cụt lệnh cho nhân dân trong vùng phải đóng thuế. Ai nộp thuế chậm, Ba Cụt cho quân bắt trói thúc ké nằm phơi nắng lăn lóc dưới sân suốt ngày đến khi nào người thân đem tiền đến nộp mới thả. Đối với những người bị tình nghi là phe địch bị bắt, Ba Cụt thường dùng cây đinh dài 10 cm đóng vào 2 lỗ tai rồi thả. Nạn nhân được thả chạy sảng quanh một lúc lâu mới lăn ra chết sau khi co giật.
Có lần tình cờ đi ngang nhà hai vợ chồng nọ đang gây gổ nhau. Thấy người phụ nữ mắng chồng leo lẻo, Ba Cụt lệnh cho thuộc hạ xông vào bắt trói. Đích thân ông ta dùng dao rạch miệng người phụ nữ đến mang tai, mặc cho ông chồng quỳ lạy van xin. Mấy hôm sau nạn nhân chết, ông chồng tự tử theo

Năm 1954, Bảy Đởm vẫn còn đóng trại trên lưng chừng núi Bà Đội Om và vẫn thu tiền mãi lộ những ai đi ngang qua đoạn đường này. Một hôm Ba Cụt cho một tiểu đội lính tuyển mai phục bắt trọn ổ nhóm cướp Bảy Đởm trói gô lại chở về "Tổng hành dinh" ở Bằng Tăng.

Vừa gặp Ba Cụt, tướng cướp Bảy Đởm quỳ sụp xuống vừa lạy như tế sao vừa ca ngợi Ba Cụt như một vị tướng trời. Bảy Đởm thề sống chết, nếu Ba Cụt tha mạng, sẽ trung thành phò tá suốt đời.
Nhận ra Bảy Đởm cũng có thành tích bất hảo như mình, Ba Cụt thu nhận và giao cho Bảy Đởm chỉ huy 1 đại đội đóng chốt tại núi Cấm. Từ một thảo khấu cướp đêm, chớp mắt Bảy Đởm trở thành thảo khấu cướp ngày công khai, núp dưới danh nghĩa "kháng chiến quân".
“Phó ông trời” vùng Bảy Núi
Từ khi mang danh nghĩa kháng chiến, Bảy Đởm thường khề khà nói với thuộc hạ: "Vùng này, anh Ba (tức Ba Cụt) là ông trời, còn tao là phó ông trời". Được trao quyền sinh sát, Bảy Đởm thỏa sức thể hiện bản chất độc ác của một tên đồ tể. Hắn dùng việc tra tấn, giết chóc, cướp bóc, ức hiếp dân lành làm thú vui.
Để lấy uy trấn áp đám thuộc hạ - hầu hết là lưu manh, côn đồ - Bảy Đởm thường khoe mình được cha truyền thụ võ bùa gồng Trà Kha đến mức thượng thừa. Nhiều lần Bảy Đởm biểu diễn cho đám thuộc hạ chứng kiến khả năng dùng bùa chú chống đạn như sau: Ông ta đưa khẩu súng ngắn cho một thuộc hạ bảo đứng cách 2 mét rồi bắn thẳng vào mặt ông ta. Súng nổ. Bảy Đởm há mồm táp đầu đạn rồi nhe ra cho mọi người xem. Thật ra, trước khi biểu diễn, Bảy Đởm đã lắp đạn mã tử vào khẩu súng và ngậm sẵn đầu đạn trong mồm.
Lần khác, Bảy Đởm đi ngang đám thuộc hạ, bất thần quả lựu đạn đeo bên hông sút kíp an toàn rơi lông lốc dưới đất. Trong khi đám thuộc hạ hoảng vía nằm bẹp xuống đất thì Bảy Đởm đưa tay bắt ấn quyết, miệng hô lớn thần chú. Quả lựu đạn không nổ. Thật ra, quả lựu đạn đã bị Bảy Đởm cắt bỏ kíp nổ từ trước. Từ 2 chiêu "bùa" đó, đám thuộc hạ truyền tai nhau rằng: "Thân thể ông Bảy bất khả xâm phạm bởi súng đạn, dao, búa".
Để tăng thêm sự can đảm cho thuộc hạ, Bảy Đởm vẽ bùa "đạn né" phân phát khắp đại đội. Ai đã có bùa hộ mạng mà vẫn bị trúng đạn, Bảy Đởm đổ thừa nạn nhân không thành tâm với "phó ông trời” nên bị nạn.
Khi Bảy Đởm đi đến vùng nào, phụ nữ vùng đó đều dùng bùn, tro bếp hoặc nghệ bôi trát lên mặt để "phó ông trời" không thèm chú ý. Bởi, Bảy Đởm khen người phụ nữ nào đẹp thì ngay lập tức được đội cận vệ "mời" - bất kể đã có chồng hoặc chưa - về doanh trại. Cưỡng hiếp chán, hắn "thưởng" cho thuộc hạ.
Bảy Đởm có tổng cộng 7 người vợ thì có 5 bà đều bị hắn cưỡng hôn bằng một kịch bản gần giống nhau: Cho thuộc hạ vu oan cha cô gái tội làm gián điệp cho Tây rồi bắt trói. Chúng dàn cảnh như sắp tử hình nạn nhân rồi khuyên cô gái: "Đi gặp ông Bảy xin tội cho cha". Khi cô gái đến xin "tội", Bảy Đởm nói thẳng: "Muốn cứu mạng cha thì phải chịu làm vợ của qua".
Duy người vợ cả ở Cái Dầu và người vợ thứ 6 (hiện bà và các con vẫn cư ngụ ở rạch Bà Chiêu, quận Thốt Nốt, Cần Thơ) Bảy Đởm không dùng chiêu "Thúy Kiều chuộc cha" mà xách súng vào thẳng nhà xin cưới dù không quen biết. Không rào trước đón sau, ông ta nói gọn với cha mẹ cô gái: "Ngày mai tôi cưới con gái ông".
Không cần biết cha cô gái đồng ý hay không, ngày hôm sau, Bảy Đởm lệnh cho cả đại đội đem bò, heo đến nhà cô gái làm thịt bày cỗ ăn nhậu. Đến giờ hợp cẩn, Bảy Đởm vận quân phục khệnh khạng xuất hiện bắn một tràng tiểu liên lên trời "báo tin vui". Đám thuộc hạ cũng bồng súng bắn ăn mừng vang động một góc trời. "Đốt pháo mừng" xong, Bảy Đởm đến trước bàn thờ gia tiên xá chiếu lệ vài cái, ném cho cha mẹ vợ đang ngồi chết khiếp một bao tiền rồi bế thốc cô dâu xuống chiếc phà kết hoa. Vậy là xong lễ cưới.
Mộ Bảy Đởm.
Suốt nửa thế kỷ qua, dù Bảy Đởm đã chết, hai người phụ nữ ấy không bao giờ hé răng một lời về cuộc hôn nhân khủng khiếp đó. Con cái của họ chưa từng có dịp nghe mẹ kể về cha mình.
Dù có 7 vợ, 18 đứa con, nhưng ngày Bảy Đởm đền tội với dương trần, chỉ duy nhất bà vợ ở Cái Dầu dự đám tang. Dự đám tang nhưng bà không đội khăn tang.
Về món tra tấn, Bảy Đởm vượt mặt chủ tướng Ba Cụt nhiều bậc. Ông Tám (cương quyết giấu tên) hơn 90 tuổi, cư ngụ tại rạch Bà Chiêu kể: "Ổng (tức Bảy Đởm) có chiếc chày vồ bằng gỗ. Hễ bắt được ai, dù có tội hay không có tội, ổng cũng trói giật cánh khuỷu vào gốc cây gáo rồi lấy chày vồ dộng vô ngực nạn nhân nghe ình ình như đánh trống. Người nào khỏe mạnh, bị dộng 3 cái là hộc máu mồm. Nếu không nhận tội thì ổng đánh cho đến khi nhận tội. Nếu nhận tội, ổng dộng 1 phát chày vồ vô màng tang là giãy đành đạch, chết tươi.
Có lần, tôi đi câu vô tình ngang qua chỗ ổng đang ngồi uống rượu đế. Ổng uống rượu bằng chén ăn cơm. Ổng biểu tôi vô uống với ổng một chén. Tôi từ chối, ổng liền sai lính trói tôi vô gốc cây gáo. Tôi tưởng phen này mình chết dưới tay chày vồ của ổng. Ai dè ổng chỉ giỡn. Chỗ cây gáo đó, ổng dùng chày vồ đập chết nhiều người lắm. Khi ổng kéo quân đi, những đêm trăng người ta thường nghe có tiếng khóc than trên ngọn gáo. Người dân sợ quá, lập miếu thờ. Đúng ngày ổng chết, cây gáo và ngôi miếu đổ ụp xuống sông".
T.Đ.H. - một võ sư thuộc môn phái Trương Gia, hiện đang định cư ở California (Mỹ) - nguyên là sĩ quan phụ tá của Bảy Đởm kể rằng, Bảy Đởm rất mê đá gà. Tuy là sĩ quan phụ tá nhưng TĐH chỉ làm mỗi việc duy nhất là nuôi và luyện gà đá cho Bảy Đởm.
Nghe ở đâu có trường gà là Bảy Đởm sai ông đánh xe jeep chở đến. Chủ trường gà gặp Bảy Đởm kể như xui tận mạng. Bởi Bảy Đởm luôn tuyên bố "gà của phó ông trời không bao giờ thua". Nếu gà nhà có vẻ yếu thế, Bảy Đởm rút súng ngắn bắn chết tươi con gà đối thủ. Sau một năm phục vụ dưới trướng Bảy Đởm, viên sĩ quan phụ tá T.Đ.H. nhận ra mình là một trong số những kẻ cướp mang danh quân đội đã đào ngũ về quê.
Ngày đền tội
Năm 1955, khi được Mỹ đưa lên ghế Thủ tướng cho chính quyền Bảo Đại, Ngô Đình Diệm mở 2 chiến dịch lớn tấn công lực lượng quân sự Hòa Hảo. Ba Cụt tự xưng là thiếu tướng lực lượng quân sự ly khai cát cứ vùng Thốt Nốt (nay là Cần Thơ). Ba Cụt phong cho Bảy Đởm cấp bậc thiếu tá, chỉ huy Tiểu đoàn 206 - Lê Lợi.
Dù mở chiến dịch rầm rộ nhưng không giải tán được lực lượng quân sự của Ba Cụt, Ngô Đình Diệm dùng Nguyễn Ngọc Thơ dụ hàng. Tin lời chiêu dụ của Nguyễn Ngọc Thơ, Ba Cụt bị bắt tại Chắc Cà Đao (Châu Thành, An Giang) rồi đưa ra tòa án binh tuyên án tử. Chủ tướng bị bắt, Bảy Đởm kéo hết tàn quân về vùng núi Cấm và núi Bà Đội Om lập căn cứ quấy nhiễu trả thù chính quyền Diệm ở khu vực Châu Đốc, Long Xuyên. Thời điểm này, bất kỳ viên chức nào làm việc cho chính quyền Diệm đều là mục tiêu bắt cóc, ám sát của Bảy Đởm.
Sáng sớm ngày 13/7/1956, chính quyền Ngô Đình Diệm xử tử Ba Cụt bằng hình thức chém đầu. Đề phòng Bảy Đởm cho người cướp xác, Ngô Đình Diệm ngầm ra lệnh cho thiếu úy Nguyễn Văn Nhung (sau này là kẻ trực tiếp bắn Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính 1/11/1963) dùng dao lê xẻ tử thi Ba Cụt thành nhiều mảnh nhỏ rồi bí mật rải nhiều nơi.
Nghe tin này, Bảy Đởm lập đàn cầu siêu cho Ba Cụt trên núi Cấm. Trong lễ cầu siêu, Bảy Đởm thề moi tim Nguyễn Ngọc Thơ ăn sống để trả thù cho Ba Cụt. Từ đó đến ngày cuối đời, Nguyễn Ngọc Thơ không dám mò về nơi chôn nhau cắt rốn ở Long Xuyên.
Mặc dù Ngô Đình Diệm nhiều lần đưa quân lên vùng Thất Sơn truy lùng Bảy Đởm nhưng không thành công.
Miếu "quỷ ông Bảy".
Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ phù phép lên ghế Tổng thống, Bảy Đởm được Nguyễn Văn Huệ - Trung tá Tỉnh trưởng Châu Đốc mời ra hợp tác với chính quyền. Bảy Đởm đồng ý kéo quân phỉ gia nhập với quân đội Việt Nam Cộng hòa với điều kiện thăng cho ông ta hàm trung tá và tổ chức lễ "quy thuận" long trọng chứ không chấp nhận lễ… đầu hàng.
Đầu năm 1967, Nguyễn Văn Huệ đứng ra tổ chức lễ "quy thuận quốc gia" cho lực lượng phỉ và đeo hàm trung tá cho Bảy Đởm. Đó là trường hợp duy nhất của quân đội Việt Nam Cộng hòa: trung tá đeo hàm cho trung tá.
Lực lượng phỉ Bảy Đởm được đồng hóa thành Tiểu đoàn địa phương quân tỉnh Châu Đốc chịu sự chỉ huy của Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Huệ và được tiếp tục đóng quân dưới chân núi Cấm.
Trở thành Tiểu đoàn trưởng địa phương quân Châu Đốc, suốt ngày Bảy Đởm ngồi xe jeep đi săn lùng gái để bắt cóc. "Chiến công" đầu tiên của trung tá Bảy Đởm là cho pháo cối nã cấp tập vào… hang Ông Thẻ trên núi Cấm. Nơi đó, trước khi ra hàng Việt Nam Cộng hòa, Bảy Đởm đã sai đàn em chôn giấu một số súng ống thời Pháp. Sau khi nã hàng trăm quả cối, Bảy Đởm cho đàn em lên "bãi chiến trường" thu nhặt vũ khí đem ra Châu Đốc triển lãm thành tích "đánh bật một tiểu đoàn Việt Cộng ra khỏi núi Cấm".
Dù hùm báo với dân chúng nhưng suốt thời gian chỉ huy tiểu đoàn thổ phỉ mang danh "Quân đội quốc gia", mỗi lần đụng trận với du kích Tri Tôn là mỗi lần đám phỉ chạy thục mạng.
Ngày 12/11/1969, Bảy Đởm ngồi trên xe jeep chỉ huy đám thuộc hạ càn quét, cướp bóc khu vực núi Bà Đội Om. Bảy Đởm không hề biết Tòa án chính quyền cách mạng đã tuyên án tử cho hắn. Một xạ thủ ẩn trên núi Ba Đội Om kết thúc cuộc đời tướng cướp của Bảy Đởm bằng một phát đạn duy nhất xuyên vào hốc mắt, thủng sọ.
Trong giây phút cuối cùng cuộc đời, Bảy Đởm rống lên thảm thiết. Có lẽ những oan hồn nạn nhân của ông ta đã bao vây đòi nợ trần thế.
Đám tang Bảy Đởm diễn ra lặng lẽ. Ngoài thân tộc và tổ mai táng của quân đội Việt Nam Cộng hòa không ai muốn đưa tiễn lần cuối cùng kẻ đã gieo rắc tang thương cho hàng trăm gia đình lương thiện. Bảy Đởm chết trong lặng lẽ, cô độc. Để an ủi Bảy Đởm, chính quyền Việt Nam Cộng hòa "đôn" cho ông ta hàm đại tá. Một người cháu của ông ta cho biết, kể từ ngày Bảy Đởm chết đến nay, chưa từng có bất kỳ một người bạn, một thuộc hạ hay bất cứ ai đến viếng mộ, ngoài thân tộc.
Cho đến tận bây giờ, những đứa con của ông ta- kết quả của những vụ cưỡng hôn - cũng không muốn nhận mình là dòng máu của đồ tể Bảy Đởm.
Dù bị ông ta gieo rắc nhiều nỗi tang thương, cư dân địa phương vẫn cất một ngôi miếu nơi Bảy Đởm trút hơi thở cuối cùng dưới chân núi Bà Đội Om để làm nơi trú ngụ linh hồn không siêu thoát của ông ta

Bí ẩn những vụ tự vẫn trên núi Cấm

Nhiều người đã tìm đến địa điểm này để tự tử, trong đó có hai cặp song sinh. Điều kỳ lạ là trong cả hai vụ đều chỉ có một người phải bỏ mạng.

Núi Cấm còn có tên gọi khác là Thiên Cấm Sơn là địa danh huyền bí thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang. Nơi đây được ví như nóc nhà miền Tây Nam Bộ với điểm cao nhất trên 700m. Mới đây, khoảng 20h ngày 16/7, người dân thêm một phen náo loạn, hoảng hốt khi chứng kiến một cặp song sinh theo nhau gieo mình từ điểm cao Bồ Hong xuống mặt đất.
Người em nhảy trước chết thảm, người anh nhảy sau may mắn thoát chết nhờ vướng phải những lùm cây cổ thụ. Nạn nhân được tìm thấy thi thể vào trưa hôm sau dưới vực sâu, được xác định là Trịnh Hà Hải (sinh năm 1994, ngụ đường Lê Duẩn, phường Ea Tam, TP Buôn Ma Thuật, Đắk Lắk). Người anh thoát chết tên Trịnh Huy Hoàng (song sinh với nạn nhân).
Theo người dân địa phương kể lại, trước khi xảy ra vụ tự vẫn hai ngày, Hà cùng anh trai song sinh rủ nhau đi 600 km đến núi Cấm du lịch. Người anh trai kể lại với người dân địa phương, em trai gặp chuyện buồn, có dấu hiệu trầm cảm. Nhiều lần anh thuyết phục, rủ em đi chơi đây đó cho khuây khỏa, thoải mái tinh thần.
Sau khi đưa ra vài địa điểm để em trai tham khảo, người anh chiều theo em trai quyết định chọn núi Cấm để ngắm cảnh. Đây là địa điểm yên tĩnh, không khí trong lành có thể làm vơi đi nỗi buồn của em trai. Sau hành trình mấy trăm cây số, hai anh em đến nơi thì đã chiều muộn, thuê trọ ở khu vực gần chùa Vạn Linh để ngắm cảnh hoàng hôn.
Sau vụ tự tử, một người dân tình nguyện xây lại hàng rào để tránh những cái chết oan.
Sau vụ tự tử, một người dân tình nguyện xây lại hàng rào để tránh những cái chết oan.
Tối 16/7, khi những người lên điện Bồ Hong để cúng viếng thưa dần thì hai anh em song sinh háo hức leo lên, khám phá vùng đất mới. Tại bệ thờ Cửu Huyền, không gian thoáng đãng, hai anh em đứng trò chuyện cùng nhau. Sát bên là vực sâu thẳm mà người rơi xuống chỉ có thể tan xác.
Theo lời kể của người anh trai, lúc này trời đã về đêm, hai anh em đang ngồi nói chuyện ở điểm cao nhất, ngăn cách với vực sâu chỉ bằng lưới B40 thì em trai bỗng im lặng hồi lâu, vẻ tư lự, rồi bất thình lình vùng dậy, nhảy băng ra khỏi hàng rào, gieo mình xuống vực thẳm.
Quá bất ngờ trước hành động của em, Hoàng hoảng hốt. Trong đêm đen, người anh không chút suy nghĩ cũng buông mình xuống vực thẳm để theo em nhưng may mắn vướng lại trên những cành cây cổ thụ. Đến sáng hôm sau, người ta phát hiện ra Hoàng khi anh đang bò lồm ngồm dưới vực thẳm lên với những vết thương ngoài da, áo quần bê bết máu và đất cát. Lê lết lên đến khu vực điện, nơi có nhiều người dân sinh sống, Hoàng thều thào kêu cứu. Mọi người nhanh chóng đưa nạn nhân đến bệnh viện cấp cứu và báo công an.
Sau khi nhận được tin báo từ quần chúng người dân, từ sáng sớm cho đến giữa trưa, hàng chục cảnh sát và những người đàn ông địa phương có kinh nghiệm buộc dây từ trên bờ vực thẳm rồi lần xuống vực tìm kiếm người xấu số. Sau nhiều giờ tìm kiếm, thi thể nạn nhân được tìm thấy ở đáy vực. Khó khăn lúc này với những người cứu hộ là bằng cách nào để đưa xác nạn nhân lên mặt đất từ vực sâu hàng trăm mét.
Cuối cùng, sau khi cầu khấn, những người tìm kiếm buộc thi thể nạn nhân vào dây rồi bốn người đàn ông lực lưỡng chia làm 4 góc nâng thi thể của nạn nhân lên từng đoạn. Ở trên bờ vực hàng chục người đàn ông khác lại cùng nhau kéo lên. “Chúng tôi phải hết sức cẩn thận, tìm dây và nối lại chắc chắn. Người địa phương rất kiêng việc người chết do rơi từ trên cao lại rơi thêm lần nữa”, một người đàn ông trực tiếp tham gia cứu hộ cho biết.
Vất vả gần một giờ, thi thể của nạn nhân cũng được đưa lên an toàn, trong sự bàng hoàng thương tiếc của những người xung quanh. Cảnh sát khám nghiệm tử thi ngay trên điện, xác định Hà bị gãy chân, tay, đầu bị chấn thương nghiêm trọng cùng nhiều vết thương khác gây tử vong. Sau khi tử thi được khám xong, công an đã xác định nguyên nhân chết của nạn nhân là do tự tử. Sau đó, thi thể được bàn giao cho gia đình đem về quê mai táng.
Sau khi xảy ra vụ tự tử trên của anh em song sinh, người dân địa phương vô cùng hoang mang. Họ nhớ lại những vụ tự vẫn trước đây từng xảy ra ở điểm cao nhất của núi Cấm. Một điều tình cờ, cách đây đã lâu cũng có một cặp song sinh khác tự vẫn ở nơi này. Người ta lo lắng khu vực này có “dớp” tự vẫn. Những lời đồn đại về sự linh thiêng, đậm chất liêu trai được người dân thêu dệt càng làm cho dư luận xôn xao.
Hiện trường vụ tự tử của hai anh em song sinh.
Hiện trường vụ tự tử của hai anh em song sinh.
Bà Ba Lâm (43 tuổi, người bán hàng ăn trên núi Cấm) nhớ rất rõ các vụ tự tử trước đây. Bà Lâm cho biết, cách đây gần 20 năm, tại điểm cao nhất này, có một cặp sinh đôi tuổi đời khoảng mười tám đôi mươi ở tận tỉnh Bạc Liêu đến tự vẫn.
Theo đó, vì buồn chuyện gia đình nên hai chị em cùng nhau lên đây ngắm cảnh trời đất cho khuây khỏa. Sau nhiều ngày vui chơi mà tâm trạng vẫn còn nhiều uẩn uất, hai chị em quyết định tự vẫn với mong muốn sẽ được siêu thoát lên thiên đường.
Trong lúc nhảy vực sâu tự tử, người chị nhảy trước, còn người em thì quá sợ hãi nên đổi ý không nhảy nữa mà nắm tay chị kéo lại. Run rủi, người em sức yếu không kéo chị lại được nên cùng bị rớt theo xuống vực. Nhưng lạ lùng, người em sau khi nhảy thì chết còn cô chị may mắn sống sót nhờ những cây cổ thụ đỡ thân.
Kịch bản tự vẫn lạ lùng cách đây ngót 20 năm tương tự vụ tự vẫn mới xảy ra càng làm cho người dân địa phương tin rằng trên đỉnh núi Cấm có điều bất thường, ảm đạm màu sắc ma mị, huyền bí.
Sau vụ tự của hai chị em ở Bạc Liêu, bốn năm sau, một cặp tình nhân trẻ quê ở Cần Thơ cũng dắt díu lên đây tìm đến cái chết. Theo hình dung của người dân địa phương, cặp tình nhân này rất đẹp đôi. Họ yêu nhau thật lòng nhưng vì sự ngăn cách của gia đình nên tình cảm bị chia cắt. Với ý định muốn được sống bên nhau mãi mãi, họ dắt nhau lên núi Cấm quyên sinh cho trọn tình trọn nghĩa.
Cảm động nhất là việc trước khi chết, đôi tình nhân nước mắt ngắn dài, dùng dây buộc tay vào nhau rồi mới cùng nhảy xuống vực thẳm. Sau khi biết chuyện, gia đình hai bạn trẻ xấu số thương xót, vừa trách giận con cái nhưng cũng có chút phần hối hận khi ngăn cản tình duyên. Muốn con cái được siêu thoát bên nhau mãi mãi, gia đình an táng cùng một quan tài và chôn tại một điểm cao trên núi Cấm.
Trải qua thời gian, ngôi mộ này bị bào mòn, nhiều khách du lịch biết đến câu chuyện, cố tìm phần mộ của đôi trai gái này để thắp một nén nhang bày tỏ lòng cảm kích và thương mến nhưng bất thành. Người dân địa phương cũng chỉ biết đến câu chuỵện mà không biết vị trí ngôi mộ ở đâu.
Cách đây hơn 10 năm, một buổi sáng sương mờ giăng khắp, những người dân đi hái thuốc nam vô tình phát hiện một thi thể đã phân hủy gần hết ở gần hang Cọp, dưới vực sâu trên điện Bồ Hong. Công an lập tức có mặt để xử lý vụ việc, sau khi điều tra công an xác định đây là thi thể của một vị ni cô tu hành ở một ngôi chùa gần núi Cấm.
Nguyên nhân cái chết của vị sư cô này không thể xác định là tự tử hay là do tai nạn. Ngoài luồng dư luận cho rằng vị sư cô này chết do tai nạn thì đa số cho rằng đây là vụ tự vẫn. Người ta giải thích rằng do sư cô vướng bụi trần, đi tu ở chùa mà lòng vẫn không thanh thản, không quên được những chuyện bụi trần nên lên núi để quyên sinh.
Lý giải nguyên nhân của nhiều vụ tự tử trên núi Cấm, ông Ba Lưới, Trưởng ban Quản tự Thiền viện Phật Lớn (một ngôi chùa lớn đóng trên núi Cấm) cho biết: “Phong cảnh trên núi Cấm hữu tình, không gian bao la dễ làm con người khi có tâm sự u uất muốn tìm về với thiên nhiên, trong khoảnh khắc quyết định giữa sự sống và cái chết, người mang tâm sự dễ nản lòng muốn ở lại ở đây mãi mãi. Còn những lời đồn thổi của người dân trong vùng là có ma quỷ xui khiến, dụ dỗ những người muốn tìm đến cái chết nhảy xuống vực là vô căn cứ và không có cơ sở”.
Theo Xa Lộ Pháp Luậ

Ly kỳ chuyện dị nhân “Ông Cao Nhà Bàng” cao lớn hơn 2 mét


13/5/2013 10:48

“Ông Cao Nhà Bàng” là biệt danh mà người dân ở khu vực núi Trà Sư (Nhà Bàng, Tịnh Biên, An Giang) đặt cho ông Lê Văn Thùy, người đột nhiên có thân hình to lớn.

Ăn cá trê núi Trà Sư rồi đột nhiên cao lớn hơn 2 mét
Theo truyền khẩu, ông Cao Nhà Bàng, có tục danh là Lê Văn Thùy, sinh vào khoảng 1849, là con thứ 5 trong gia đình khá giả ở Trung Lương (Tiền Giang) nên thưở nhỏ có học chữ Nho. Lớn lên ông lập gia thất theo sắp đặt của song thân. Người vợ đẹp người đẹp nết đã mang lại cho ông niềm hãnh diện khi sinh liên tiếp 2 người con trai khôi ngô tuấn tú. Cuộc sống đang yên lành, bỗng đột ngột trở chiều khi  vợ, con và nhiều người thân trong gia đình cùng lúc qua đời vì dịch bệnh. Buồn, rầu... ông bỏ xứ lên miệt Thất Sơn để tầm sư học đạo. Khi đến khu vực núi Trà Sư (nay thuộc thị trấn Nhà Bàng, Tịnh Biên) thấy cảnh vật nơi đây phù hợp với mình, ông quyết định dừng chân. Qua tâm tình, ông được ông Lê Văn Sóc, một người từng theo học chữ Nho ở xã Nhơn Hưng, (nay là khóm Hòa Thuận, Nhà Bàng) mời về nhà tá túc, tiếp đãi như bằng hữu. Bà Thị Diêm năm nay 73 tuổi, là cháu nội của ông Sóc cho biết: “Theo lời kể của cha tôi, khi mới đến, ông Thùy có tướng tá cũng bình thường như bao người dân Việt Nam. Tuy nhiên sau lần ông vãn cảnh núi Trà Sư mắc trận mưa rất lớn, sau đó ăn canh bầu nấu với con cá trê vàng do chính tay ông bắt được dưới con suối trên núi thì đột nhiên ông ngã bệnh nặng rồi cơ thể to lớn khác thường”. Theo lời bà Diêm, "do thân hình ngày một lớn nhanh nên không giường chõng nào có thể kham được thân hình quá khổ của ông nên nội bà đã thuê thợ hạ cây bình linh cổ thụ trong vườn nhà, rồi chọn lóng cây dài 2,8 mét để làm bộ ván ngựa cho ông ngủ”. Tuy nhiên sau đó, cơ thể ông lại dài và cao ra thêm, ông nội bà Diêm phải đóng thêm giường bằng tre nối vào khi đó mới đủ cho ông Thùy nằm thẳng chân. Ông Phan Ngọc Anh (79 tuổi) chồng bà Diêm xác nhận: Khi cưới vợ về đây, tôi vẫn còn thấy bộ ván ngựa khổng lồ này. Hiện vẫn còn trong nhà, nhưng do thấy quá bất tiện nên hơn chục năm trước tôi đã cưa bỏ bớt chiều dài, hiện chỉ còn 2,2 mét.
Ông Phan Ngọc Anh xác nhận việc đã cắt bỏ chiều dài của bộ ván ngựa mà ngày xưa ông nội vợ ông đã đóng riêng cho ông Cao Nhà Bàng.
Thấy câu chuyện có vẻ mang âm hưởng huyền thoại, chúng tôi liên lạc với nhiều người am hiểu văn hóa bản địa của vùng biên thùy An Giang để kiểm chứng. Đầu tiên là lão nhà văn Liêm Châu, người có nhiều công trình và kiến thức sâu rộng về vùng Thất Sơn An Giang. Qua trò chuyện, lão nhà văn xác nhận,  cách đây hơn nửa thế kỷ, trong những lần đi diền dã, tôi cũng nghe người xưa lưu truyền như vậy. Thậm chí có người còn nói rất rõ thế này: ông Thùy cao đến 2,27m, tay chân dài lêu nghêu như cành tre chìa ra thân cây. Tương truyền, trong lần ra Châu Đốc, một đêm đang đi dạo, ông thèm hút thuốc mà quên mang theo bật lửa, mà xung quanh không có ai. Nhìn quanh một hồi, ông bèn bước đến dùng tay mở cửa chiếc đèn đường đề mồi mà không cần nhón chân, trong khi phu công lộ phải bắc thang leo lên. Theo lão nhà văn Liêm Châu, đèn đường thời đó cao khoảng 3m, trên ngọn đốt chiếc đèn dầu được che bởi 4 tấm kiếng màu xanh-đỏ-trắng và vàng. Nhà văn Liêm Châu còn cho biết thêm: Năm 1904, ông Thùy đạt giải quán quân tại cuộc đấu xảo “Người khổng lồ” do chủ tỉnh Châu Đốc lúc bấy giờ là Doceuil tổ chức. Vì vậy sao đó người ta đặt cho ông biệt danh “Ông Cao Nhà Bàng”. Do ông thứ 5 nên để thân mật, người ta gọi tắt là: Ông Năm Cao. Thậm chí, cái tên này còn đi vào lòng người như thành ngữ nói về sự cao lớn khác thường của sự vật, hiện tượng: Cao như Ông Cao Nhà Bàng.
Theo lời bà Diêm, trước đây gia đình bà có giữ hai di ảnh của ông Năm Cao: một bức chụp lúc ông cao lớn, vạm vỡ; một chụp lúc ông bị bại liệt, thân mình gầy ốm. Tuy nhiên sau đó đã thất lạc trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Hiện chỉ còn ảnh gương mặt ông trên mộ.
Những bí mật chưa thể  giải mã
Được sự hướng dẫn tận tình của Phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật huyện Tịnh Biên, chúng tôi lên đường viếng ngôi mộ ông Cao Nhà Bàng vào sáng cuối tuần đầu tháng 5. Ngôi mộ nằm giữa đồng cát đặc trưng của vùng Thất Sơn, nhưng quanh năm mát rười rượi bởi tàn lá cây thốt nốt đan kín bên trên. Dù đã qua nhiều lần tu sửa, nhưng theo lời bà Diêm, ngôi mộ vẫn giữ được sự to lớn khác thường nguyên thủy. Theo ước tính của chúng tôi, chỉ riêng ngôi mộ đã dài trên 3m. Dường như đoán được thắc mắc của chúng tôi, bà Diêm giải thích ngay: Thì phải làm dài cho đúng kích thước chiếc hòm bên dưới. Theo bà Diêm, ông Cao mất vào khoảng năm 1925, tính đến nay đã 88 năm. Gần một thế kỷ đi qua, nhưng có lẽ do ảnh hưởng của lớp màn huyền bí nên mãi đến nay xung quanh dị nhân này vẫn còn quá nhiều điều bí ẩn. Đầu tiên là chuyện liên quan đến nguyên nhân khiến ông trở nên to lớn dị thường. Có người thì cho là do ông bị trúng trận mưa linh thiêng trong lúc vãn cảnh núi Trà Sư. Có người thì quả quyết là do ông ăn phải con cá trê linh thiêng. Theo thuyết này, khi nấu canh, con cá trê vàng do ông bắt được dưới suối núi Trà Sư, rã ra thành nước vàng lườm như nghệ… Riêng với cơ chế cơ thể cao lớn cũng có nhiều cách lý giải. Có người thì cho là sau trận bệnh nhức đầu nóng lạnh, các bộ phận trên cơ thể ông đồng loạt dài ra. Nhưng cũng có người lại cho rằng, quá trình đó diễn ra từng phần riêng lẻ. Điển hình là ông Bùi Văn Lê, (73 tuổi –Trưởng gánh của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang). “Ba tôi sinh năm 1908, sinh thời có kể về chuyện  về ông Cao Nhà Bàng thế này: Sau khi lâm trọng bệnh, mỗi khi ông thấy bộ phận nào trong cơ thể bị đau nhức, thì sau đó bộ phận đó dài ra”, ông Lê tự tin. Thậm chí sau khi ông bị đột biến về cơ thể, cũng tồn tại nhiều tin đồn trái ngược nhau. Có người thì cho biết, ông vẫn sinh hoạt bình thường, nhưng có người thì lại quả quyết rằng: ông có thêm nhiều biệt tài. Theo lão nhà văn Liêm Châu, không chỉ biết dùng cây cỏ trên núi trị bệnh cho người dân, ông Cao Nhà Bàng còn có thêm tài đoán việc kiết-hung rất đại tài nên có rất nhiều người tìm đến. “Thật khó để phân định thực-hư, nhưng có một sự thật là sau khi ông mất, mộ của ông thường xuyên nghi ngút nhang khói của những người hiếm muộn đến cầu con, những người bệnh, tai ách đến cầu tai qua nạn khỏi...”, ông Phan Ngọc Anh xác nhận.
Di ảnh ông Cao Nhà Bàng.
Riêng thông tin xung quanh cái chết của ông càng đa dạng. Có người thì cho rằng do thấy ông hay giao du với các nhà sư yêu nước nên chính quyền Pháp lo ngại ông tạo phản. Nhưng cũng có người cho rằng, do ông có tài hốt thuốc trị bệnh, sợ ông tập hợp người làm đại sự. Tuy nhiên cả hai thuyết này đều giống nhau ở chỗ xác định chính người Ph áp đã tiêm thuốc làm ông bại liệt rồi chết lần, chết mòn.
Thậm chí về chuyện bài vị của ông cũng đang đòi hỏi các nhà nguyên cứu sớm làm rõ. Theo học giả Nguyễn Văn Hầu, tác giả của quyền “Nửa tháng trong vùng Thất Sơn” và lão nhà văn Liêm Châu: Hiện bài vị của ông với đạo hiệu Quản vĩnh Đạo Cao quang Như Lai đang được thờ tại Bửu Minh Đường (Ba Chúc-Tri Tôn). Đây thực chất là nơi thờ tự theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa dị nhân với đạo Phật nội sinh này, chúng tôi lại bắt xe vào Ba Chúc. Tuy nhiên, trao đổi với chúng tôi,  ông Bùi Văn Lê, Trưởng gánh của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại Ba Chúc, cho biết: Theo hiểu biết của tôi, bài vị này trùng khớp với câu niệm trong “Hiếu Nghĩa kinh thượng quyện” do Đức Bổn sư Ngô Lợi (1830-1890)  viết vào khoảng năm 1878”.  Với tất cả sự thận trọng, chúng tôi tìm đến Bửu Minh Đường tọa lạc dưới chân núi Tượng, một trong 7 ngọn núi trong Thất Sơn, để “mục sở thị”. Sau một buổi tìm kiếm với sự  hướng dẫn và trợ giúp của ông Lê Văn Tiếu, đại diện Bửu Minh Đường, chúng tôi hoàn toàn không phát hiện bài vị nào có đạo hiệu như trên dưới cả hai loại chữ Hán và Việt.
Tuy nhiên trước lúc chia tay, ông Lê cũng đề xuất: Nhà báo nên công bố thông tin này để các nhà nghiên cứu tìm hiểu, cung cấp thêm tư liệu để góp phần giải mã “bí mật” này.
Điền Thanh (Công lý và xã hội)

Tăng trưởng dân số và những thách thức


Cập nhật ngày: 19/08/2012 17:43:12

Sự tăng trưởng dân số hợp lý và không ngừng nâng cao chất lượng dân số được An Giang khẳng định là một trong những chính sách xã hội cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở Y tế An Giang, nhiều vấn đề về dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản trên địa bàn tỉnh vẫn đang là thách thức lớn. Trước hết là thực hiện mục tiêu giảm sinh chậm. Một số nơi chủ quan, có phần buông lơi công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), thiếu chỉ đạo, kiểm tra dẫn đến tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên không giảm hoặc giảm chậm nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên gây ảnh hưởng đến phong trào thực hiện KHHGĐ. Tỷ số giới tính khi sinh tăng nhanh và liên tục, năm 2009 đã lên tới 113 trẻ sơ sinh trai/ 100 trẻ sơ sinh gái nếu không có giải pháp tích cực thì tỷ số này có thể vượt trên mức 115 vào năm 2015. Từ đó, sẽ tác động xấu đến trật tự, an ninh xã hội, gây khó khăn trong việc xây dựng gia đình của các thế hệ tương lai.
 
         Bên cạnh đó, chất lượng dân số chậm được cải thiện, An Giang vẫn nằm trong nhóm các tỉnh có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn rất thấp (đến năm 2010, chỉ có 34% dân số). Nhiều vấn đề về KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) chưa được giải quyết tốt, chất lượng dịch vụ KHHGĐ còn hạn chế. Thêm một vấn đề đáng chú ý nữa là, tỷ lệ tử vong sơ sinh vẫn còn cao (4,2%o), chiếm tới 42% tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và 23,3% tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi vẫn còn cao; tình trạng phá thai nhiều, ở mức 25 ca phá thai trên 100 trẻ sinh sống bao gồm cả phá thai ở thanh niên tiền hôn nhân, người chưa thành niên. Tình trạng nhiễm khuẩn đường sinh sản khá phổ biến, bệnh lây truyền qua đường tình dục – HIV và ung thư đường sinh sản còn cao. Trong khi việc khám, phát hiện, điều trị, theo dõi và tư vấn sau điều trị chưa được quan tâm đúng mức. Dịch vụ chăm sóc SKSS nam giới, người cao tuổi, người di cư chưa sẵn có, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng…
Trước tình hình trên, tỉnh đã triển khai kế hoạch hành động giai đoạn 2011-2015 thực hiện chiến lược dân số và SKSS Việt Nam. Đây là nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng SKSS, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số. Phấn đấu đến năm 2015, An Giang thực hiện đạt một số mục tiêu chủ yếu, như: Tốc độ tăng dân số ở mức khoảng 1%; chỉ số phát triển con người ở mức trung bình cao của cả nước; giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh dưới mức 108 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái; quy mô dân số không vượt quá 2,2 triệu người; nâng cao sức khỏe bà mẹ trước trong và sau sinh, giảm tỷ số tử vong mẹ và tai biến sản khoa; giảm tỷ lệ phá thai, cơ bản loại trừ phá thai không an toàn…
Theo Phó Giám đốc Sở Y tế An Giang Trịnh Hữu Thọ, để thực hiện tốt các mục tiêu trên, đòi hỏi tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể đối với công tác dân số và SKSS. Đồng thời, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy đảm bảo quản lý và thực hiện có hiệu quả công tác này. Bên cạnh công tác tăng cường truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ dân số và SKSS; tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng…
 Bài, ảnh: HỒNG TRANG

Cây da cổ thụ có tuổi thọ khoảng 350 năm ở thị trấn Long Bình

An Giang: Cây da 350 tuổi đang chết dần

(Dân Việt) - Ngày 14.8, ông Lâm Thanh Bình – Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy An Phú cho biết: Cây da cổ thụ có tuổi thọ khoảng 350 năm ở thị trấn Long Bình đang bị mối mọt tấn công, nhiều rễ, nhánh đã bị chết.

Đây là cây da lịch sử gắn với truyền thống cách mạng của huyện biên giới An Phú và là điểm tham quan của du khách.
Cây cao hơn 50m, độ che phủ khoảng 2.000m2, gốc có bề hoành tới 25m. Theo nhiều nhà nghiên cứu, cây da này có tuổi thọ lớn nhất cả nước.